77 tuổi vẫn lặn "chay" vài tiếng mỗi ngày
Ngôi nhà của ông Quách Trọng Hoan nằm giữa cánh rừng bạt ngàn sát cạnh Biển Hồ thuộc khu vực xã Biển Hồ, TP Pleiku, tỉnh Gia Lai. ở cái tuổi 77 cơ mà ông Hoan vẫn được trời phú cho một sức khỏe phi thường. Như một "con rái cá", ông vẫn có thể lặn sâu hơn chục mét mà không cần bất kỳ dụng cụ lặn nào.
Cuộc sống của ông giản dị đến mức, nếu mới nhìn vào ai cũng nghĩ ông là người nghèo khổ, cùng quẫn: Một căn nhà 2 gian, vật dụng thì lệch xệch, thứ tiên tiến nhất chính là hai cái bóng điện hình chữ U và một cái chiếu nhựa. Ông ở dưới thuyền cả ngày lẫn đêm, chỉ đến bữa mới lên "túp lều" nấu ăn cho mình và những vật nuôi trong nhà.
Nhiều cư dân sống quanh Biển Hồ nói rằng, nếu chẳng phải ông Hoan làm những việc khác người thì bây giờ ông đã là tỷ phú. Trước đây, ông từng sở hữu hàng trăm ha đất, cơ mà gặp người nào nghèo khổ không có đất sản xuất, muốn chí thú buôn bán lương thiện là ông lại cho họ mượn đất để an cư, rồi sau một thời gian thì cho luôn. ngày nay, mảnh đất tuyệt trần có giá trị hàng tỷ vnđ, nằm ven biển Hồ rộng hàng nghìn m2 cũng gần được ông hiến để xây chùa.
Ông Quách Trọng Hoan (bên trái) trong một lần đến thăm bà En và ông Kheo.
Ông không có nhiều đề cập gia đình mình. Chỉ hiểu rằng sau khi vợ chồng ông có với nhau 4 người con (2 trai, 2 gái) đã khôn lớn và có việc làm ổn định thì vợ chồng ông ly thân.
Ông khoe, con cái bây giờ đều học hành thành người hết, đó là niềm ấm cúng chu toàn nhất của đời ông. Song điều đáng nói là ông có đến hơn 300 người con nuôi còn cháu chắt thì dồi dào. Ngoài những khi lênh đênh trên Biển Hồ để cứu vớt người chết đuối, ông lại rong ruổi trên chiếc xe đạp đi đến những bản mường xa xăm giúp đồng bào dân tộc làm kinh tế. Rồi có cô phóng viên từ xứ Thanh, trong một lần vào Tây Nguyên viết báo, cảm kích trước những việc làm âm thầm của ông nên đã không ngại ngần tặng chiếc xe máy mình đang đi để cho ông có công cụ đi lại.
Người "rong chơi" dưới đáy Biển Hồ
Khi mùa đông về, ông Hoan lại mang áo quần, mì tôm đến tương hỗ cư dân nghèo.
Người ta thường đề cập cái sự "quái dị" của ông bằng tấm lòng hâm mộ. Mà ông cũng lạ đời thật, vì một mực dưới đáy Biển Hồ với độ sâu 40 mét có xác máy bay của Mỹ mà ông dành những tháng lặn xuống để tìm tòi thực hư. Ông kể rằng, khi đó qua những lần lặn ngụp sâu nhất xuống tận đáy Biển Hồ để trục vớt xác người chết đuối bị mặc kẹt, ông phát hiện một khối sắt vụn lớn hao hao giống chiếc máy bay. Là người từng vào sinh ra tử trong kháng chiến, ông nhận định rằng đây là một trong những chiếc máy bay của Mỹ bị bắn rơi trong chiến tranh.
Nhận định của ông Hoan khiến nhiều người hiềm nghi. Người ta càng không tin thì ông càng muốn minh chứng sự thật đó. Thế là ông tìm gặp và thuyết phục một vài người quanh vùng cùng ông lặn xuống lòng Biển Hồ, đoạn sâu nhất để tìm vớt những phế truất liệu của chiếc máy bay lên. "Để vớt được số phế truất liệu này, nhóm người chúng tôi đã bỏ công gần một tháng trời ngụp lặn sâu dưới đáy Biển Hồ. sau đó ai cũng bị ốm hơn nửa tháng vì bị khí độc từ xác máy bay phả vào mặt trong dịp lặn", ông Hoan kể lại.
Sau khi báo cáo chính quyền địa phương và được nơi công sở chức năng chấp nhận cho sử dụng những phế truất liệu của máy bay vớt được, ông Hoan đã chia cho những thợ lặn những phần phế truất liệu để bán lấy tiền trang trải cuộc sống. Về mình, ông chỉ lưu trữ phần khung chân của chiếc máy bay để làm kỷ niệm. Đến nay, ông vẫn đặt khối sắt đó ở ngay đường vào sân nhà.
Ông Hoan bảo với chúng tôi rằng, dưới lòng Biển Hồ ngày nay vẫn còn hai xác trực thăng của Mỹ bị rơi trong chiến tranh. "Người ta chẳng tin đâu, bởi thế mỗi tối, tôi lại dành vài tiếng lặn ngụp dưới đáy Biển Hồ để chứng nhận xem xác những chiếc trực thăng ấy ở đoạn nào. Biển Hồ rộng lắm, diện tích bề mặt cũng vài km vuông nên việc tìm kiếm chẳng dễ dàng. Còn sức, tôi còn lặn ngụp, còn tìm", ông cười sảng khoái.
Còn nhớ, một vài năm trước chính ông đã quyết đoán với chính quyền và cư dân Plaiku rằng "có một bãi tha ma ngầm dưới lòng Biển Hồ". Ông còn quyết đoán rằng nếu khai quật lên mà không có thì cứ mang ông đi... xử tử. Qua đợt khai quật, nhiều người dân đã tìm thấy mộ người nhà sau mấy chục năm mất dấu, từ đó họ càng khâm phục ông hơn.
Từng bị Fulro treo thưởng mạng sống
Một phần chiếc xác máy bay của Mỹ được ông Quách Trọng Hoan trục vớt cuối năm 2014.
Ngược dòng thời gian, năm 1965 chàng trai người Mường Quách Trọng Hoan xung phong xuất phát bảo vệ sơn hà , chiến đấu ở chiến trường đường 9 Nam Lào. Do bị sốt rét ác tính nên ông được chuyển về bệnh viện ở quê nhà Ninh Bình để điều trị. Sau khi khỏi bệnh, ông được cắt cử làm điều hành Trường Đoàn tỉnh Hà Nam Ninh khi bấy giờ.
Sau đó, ông được cử đi học lớp bổ túc Công nông ở hà nội, kết quả là học tập đạt loại giỏi nên được thi vào trường đại học kinh tế (năm 1972). khi ông tốt nghiệp cũng là khi miền Nam được giải phóng. bây giờ, miền Nam đang rất cần cán bộ nên ông Hoan được huy động vào Đồng Nai. Do đã từng sống và chiến đấu với bà con dân tộc trên Tây Nguyên và vùng bờ cõi Việt - Lào, ông đã xin được lên đây giúp bà con. Ông được cắt cử vào ban Kinh tế mới của tỉnh Gia Lai - Kon Tum khi bấy giờ. Thời còn là bạn teen xung phong ở những tỉnh này ông đã gắn bó với bà con và nói thành thạo được những thứ tiếng như Bahnar, Jarai, Ê Đê… nên ông xin vào làm Phòng định canh - an cư và đến tất cả những vùng sâu vùng xa và bờ cõi.
Thời điểm ấy, việc làm chính của ông là cạnh tranh với bọn phản động Fulro tàn ác chuyên quấy rối dân làng. Bà con thì nghèo, rất lạc hậu, nhiều người chưa biết tiếng Kinh nên luôn bị bọn phản động Fulro tuyên truyền bằng luận điệu "ai đi theo Fulro sớm thì có súng mới, áo quần mới… ai đi muộn thì chỉ có súng cũ và áo quần cũ... ", bởi thế một vài bạn teen bản mường đã đi theo chúng khiến tình hình diễn biến ngày càng phức tạp hơn.
Bằng anh tài và sự nhiệt tình của mình, mỗi ngày ông cùng đồng đội đi hết buôn làng này đến buôn làng khác cùng bà con làm rẫy, thông dụng kiến thức và xin chính phủ cấp vốn buôn bán cho bà con. Để chống Fulro, đến mỗi làng ông đều giúp bà con có mặt trên thị trường đội du kích, dạy họ cách chiến đấu với hiểm nguy. "Bọn Fulro thường đến nhà bà con để ăn hiếp, bắn giết. Chính bởi thế, chẳng những du kích chúng tôi phải ngủ ngoài rừng mà chúng tôi cũng vận động bà con ra ngoài bụi cây để ngủ, có như vậy bọn Fulro mới không vào quấy rối bà con nữa", ông Hoan kể.
Ngày đó, bọn Fulro chẳng những sợ sự mưu trí của ông mà còn hoảng hốt bởi cái tên cúng cơm "xạ thủ" của ông. Chính vì cái tài bắn súng này mà bọn Fulro không bao giờ dám đụng đầu với ông, chỉ cần nghe tiếng ông chỗ nào là chúng đã phải xa lánh. "Có lần chúng tôi bắt được tàn quân Fulro, chúng khai rằng thủ lĩnh luôn treo giải thưởng nếu ai bắn chết được tôi thì sẽ được thưởng lớn. cơ mà không có tên nào dám bắn tôi, nếu gặp thì chúng toàn lánh mặt đi hoặc giả làm dân thường", ông kể.
Gần 4 năm sống cùng đồng bào, ông đã giúp nhận thức của họ tốt hơn và cuộc sống kinh tế đỡ khổ hơn. như vậy, dù còn rất trẻ ông vẫn được bà con gọi là "già làng của những già làng". Đến năm 1978, ông xin nghỉ hưu sớm, về thôn 4, xã Biển Hồ, TP Pleiku (Gia Lai) bên cạnh Biển Hồ và mua đất dựng nhà.
Mang duyên nợ với Biển Hồ
Ông Hoan chèo thuyền tìm thi thể một nạn nhân bị đuối nước ở lòng hồ sâu. Ảnh: Cao Tuân
Ông Hoan kể cho chúng tôi căn nguyên dẫn dắt ông an cư nơi Biển Hồ, đó là dịp Tết Mậu Thân năm 1968. khi đó, ông ở bộ phận hậu cần của Bộ Tư lệnh chiến trường B3, làm bổn phận giao liên, phụ công binh gỡ bom mìn, cáng thương, phụ nhà bếp lo bữa ăn cho doanh nghiệp. khi tiếng súng đồng loạt nổ ra cũng là phút giao thừa, khiêng thương binh trong tiếng đạn bắn, pháo nổ của cuộc giao tranh, ông thấy khu rừng u ám bỗng rực sáng, đạn pháo bắn lên trời như pháo bông. Giữa khi bom đạn sinh tử ông nhìn thấy bãi biển Hồ đẹp đẽ lạ lùng. Một không phận nước bao la, xung quanh là rừng thông hùng vĩ và long lanh. không biết sinh tử thế nào, đột nhiên ông thì thầm: "Nếu may mắn được sống sót thì sau chiến tranh nhất định mình sẽ trở lại nơi này".
Sau này, ông thực hiện tâm nguyện đó bằng việc mua đất dựng nhà ở cạnh Biển Hồ. Xưa kia, Biển Hồ vốn là miệng núi lửa, dù đã tắt ngấm từ ngàn năm nay cơ mà lòng hồ vẫn chơm chởm đá, hốc lồi hốc lõm khác thường. nơi đây chẳng những lừng danh là thắng cảnh, là "đôi mắt Pleiku Biển Hồ đầy" mà còn là hiểm địa với những vụ đuối nước, tự vẫn. Nhà cạnh Biển Hồ, những đêm, ông nằm một mình suy nghĩ vẩn vơ mà thương cho những người đen đủi phải bỏ mạng ở lòng hồ... Từ đấy, hễ nghe thấy vụ chết đuối nào ông đều mau chóng đến nơi nhảy ùm xuống hồ để cứu hoặc nếu đã quá muộn thì sẽ vớt xác người đen đủi.
Với người chết đuối, ông làm chẳng những vì hứa hẹn với bản thân, mà mỗi sinh linh ông đều xem như thân thích ruột thịt của mình. Mấy chục năm sống bên Biển Hồ, ông đã cứu sống được 8 người, vớt được 82 xác người chết đuối. "Với tôi, vớt xác người là chuyện quá bình thường, bởi ai biết bơi khi thấy người chết cũng đều xuống cứu cả thôi".
Ngoài những nghĩa cử cao đẹp mang tới cho cộng đồng, những năm nay, đêm ngày ông âm thầm hương khói để sưởi ấm cho những linh hồn mình đã vớt lên để mong những căn số kém may mắn được siêu thăng. Để thực hiện được điều khôn thiêng đó, ông đã chắt chiu tiền và xây một ngôi đền Vạn Linh để mỗi ngày hương khói cho những "người con tội nghiệp".
Cái tâm của ông chẳng những được bà con trong vùng nể trọng mà những ông bố, bà mẹ mang con đến gửi để nhờ ông bảo ban. Hiện ngoài hơn 300 người con nuôi trong cả nước, những bạn teen, con trẻ những bản mường gần khu vực đều gọi ông là "ông ngoại".
Những mối tình đi qua thời trai trẻ
Bữa cơm của ông Hoan giản dị bằng những con cá bắt dưới sông.
Hỏi chuyện tình yêu, ông tâm sự: "Tôi được những chị em thương yêu cơ mà với tôi tình yêu nó khôn thiêng như ngôi sao trên trời, tuyệt đối chẳng thể dễ dãi. Ngoài người vợ vị tha đã chung sống và sinh hạ cho tôi 4 người con, tôi có những mối tình dở dang cơ mà chẳng thể nào quên được".
Ông kể, khi từ chiến trường trở lại nhận công tác điều hành Trường Đoàn của tỉnh Hà Nam Ninh. nơi đây, ông lưu tâm đến Hồng Tơ, cô gái xinh bắt mắt nhất, hoa hậu của trường khi bấy giờ. mỗi ngày đều đặn ông làm một bài thơ ban tặng Hồng Tơ. Có đến cả 100 bài được chép trong sổ thơ của ông, bài nào cũng đằm thắm, chết mê. khi tình yêu đang chớm nở thì ông phải chia tay hoa hậu để nhận bổn phận ở một vùng đất khác. Chiến tranh loạn lạc, họ mất giao thông với nhau.
Mối tình sâu đậm khác của ông gắn bó với Savanakhet - Lào. Hồi đó, ông được cắt cử cáng đáng bến phà Tà Khống, chuyên chở bộ đội, lương thực, thực phẩm vào Nam ra Bắc, đây là một trong những trọng điểm ác liệt nhất đoạn đường 9 - Nam Lào. Trong một lần mang muối tương hỗ đồng bào Lào, ông quen Manivon – một cô gái duyên dáng vừa tròn 18 tuổi duyên dáng như bông hoa pơ lang. Manivon cũng phải lòng ông. Năm đó, ông 25 tuổi và hứa rằng hết chiến tranh sẽ cưới Manivon và đưa cô về việt nam. cơ mà chiến tranh không ai học được chữ ngờ. Một đêm cuối tháng 10/1966, sau khi chở bộ đội qua sông, ông cùng một đồng đội cột phà vào một gốc cây rồi cả hai ngủ vùi vì quá mệt sau một ngày áp lực. Đêm đó, mưa rừng liên hồi làm sạt lở bờ suối, kéo đổ cây khiến con phà cứ thế trôi lênh đênh trên dòng sông Amahiên sang tận Campuchia. Tạnh mưa, họ sửng sốt thấy xung quanh là cánh đồng xanh mướt, không còn núi rừng. Họ đã đi xa rời Tà Khống mấy trăm km. Từ đó, không có dịp trở lại đất Lào, Hoan ôm theo mối ân hận là không gặp lại được Manivon.
Người dân đến thăm "ông già Biển Hồ" dịp Tết.
Mối tình đặc biệt nhất đối với ông Hoan là người con gái tên En sống tại xã Ia Nhin, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai. En có mái tóc vàng duyên dáng, đẹp như một bông hoa của núi rừng khiến bất kỳ chàng trai nào ngắm nhìn cũng phải ngẩn ngơ. Ngoài sắc đẹp trời cho, En còn là cô gái hát hay và có đôi tay khéo léo, biết thêu thùa, đan lát. Một ngày, người thiếu nữ ấy khoác lên mình bộ đồ truyền thống của người Jrai và đứng chờ trước nhà ông Hoan. bây giờ, Hoan cầm tay En và nói: "Tôi sẵn sàng xuất gia, ở đó xa lắm, En không tới được đâu. Tôi cũng không đến đây nữa đâu. Kheo yêu En và muốn ở gần En đấy". thế ra, ông biết người con giai rất chết mê En là một người bạn mình và ông đã tìm cách để tác hợp cho họ.
Ngồi kể chuyện tình, đôi mắt ông già Biển Hồ thoảng chút sương khói bảng làng. Rồi như đột nhiên nghĩ đến mai sau, ông thảng thốt: "Tôi đang xin chính quyền sở ở có mặt trên thị trường một đội bảo vệ cứu nạn Biển Hồ để cứu và vớt xác người. Sau khi thực hiện xong việc này, tôi sẽ lên núi Tiên Sơn (một ngọn núi hùng vĩ của Tây Nguyên) để ở ẩn. Giờ mình ở tuổi chiều hôm rồi cũng mong có giây phút an nhàn, đọc sách, niệm Phật và nghĩ ngẫm về cuộc đời…".
Vinh dự nhận giải thưởng Kova Năm 2011, ông Quách Ngọc Hoan vinh dự được nhận giải thưởng Kova do nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình ký tặng. Đây là giải thưởng tôn vinh những tấm gương điển hình trong cuộc sống xã hội có những việc làm nhân bản, cao cả tương hỗ cộng đồng, qua đó, nhằm nhân rộng tầm khoảng nữa những nghĩa cử này, góp một phần khiến cho cuộc sống ngày càng tươi đẹp. đặc biệt hơn, cư dân Tây Nguyên còn đặt tên ông cho một ngọn núi hùng vĩ, nơi ông từng đánh Fulro và gắn bó với dân làng (núi Chư Hoan ở huyện Chư Păh, Gia Lai). |
Vớt xác động vật mang đi chôn Vài năm lại đây, ông Quách Trọng Hoan chẳng những vớt xác người mà còn vớt xác động vật và rác thải của những cư dân vứt xuống Biển Hồ. Ông kể, khổ nhất là vào mỗi mùa dịch heo, cúm gia cầm, vịt… cư dân lại mang những thứ đó vứt xuống Biển Hồ. Có ngày họ vứt đến 30 con heo dịch bệnh chết, có con nặng cả tạ, vớt xong, ông Hoan mang chúng đi chôn. công tác đó có người bảo là "đồ khùng" cơ mà ông chỉ cười, vì ông biết có đến hơn 80% cư dân Pleiku mỗi ngày vẫn sử dụng nước sạch lấy từ Biển Hồ. |