Ngày 18-2, Quân khu 3 cho Sư đoàn bộ binh 327 (gồm Trung đoàn bộ binh 42, 75, 540 và Trung đoàn pháo binh 120) từ quảng ninh lên gia tăng cho Quân khu 1. Tiếp đó ngày 19-2, Quân khu 4 gấp rút tổ chức cho Sư đoàn bộ binh 337 (gồm Trung đoàn bộ binh 4, 52, 92 và Trung đoàn pháo binh 108) tiến quân bằng cả tàu hỏa và xe chuyên chở từ Nghệ An ra.
Ngày 25-2 những doanh nghiệp này đều được bổ sung cho điểm nóng nhất bây giờ là chiến trường Lạng Sơn và sau đó bên trong đội hình Quân đoàn 5 – Binh đoàn Chi Lăng.
Trước tình hình diễn biến chiến sự ngày càng trở lên quyết liệt ở khu vực thị xã Lạng Sơn, Bộ Quốc phòng đã quyết định sử dụng đến những doanh nghiệp cơ động chiến lược. Ngày 3-3 Quân đoàn 1 – Binh đoàn Quyết Thắng nhận lệnh cho Sư đoàn bộ binh 320B (sau này đổi thành 390 - đoàn đồng bằng, gồm Trung đoàn bộ binh 27, 48, 64 và Trung đoàn pháo binh 54) được gia tăng Trung đoàn bộ binh 209 (đoàn Sông Lô) thuộc Sư đoàn bộ binh 312 (đoàn Chiến Thắng) và tiểu đoàn pháo tầm xa 130mm của Lữ đoàn pháo binh 45 (đoàn Tất Thắng) cấp tốc tiến quân lên Lạng Sơn.
Tối 4/3, những doanh nghiệp này đã triển khai thực hiện sẵn sàng trên tuyến chiến đấu Chi Lăng-Đồng Mỏ-Hữu Kiên. Trước đó một tuần, ngày 27-2, Quân đoàn 2 - Binh đoàn Hương Giang đang làm bổn phận truy quét Khmer Đỏ ở Kampot, Kampong Som (Campuchia) cũng được lệnh cơ động gấp tất cả lực lượng về nước.
Cuộc chuyển quân thần tốc bằng cả đường hàng hải, đường bộ, đường sắt và đường không bắt đầu từ 6-3, đến 11-3 những doanh nghiệp đầu tiên của quân đoàn gồm Sư đoàn bộ binh 304 (đoàn Vinh Quang), Lữ đoàn pháo binh 164 (đoàn Bến Hải), Lữ đoàn phòng không 673, tiểu đoàn trinh sát… đã về tới hà nội.
Theo dự báo ban đầu, hai sư đoàn 320B và 304 sẽ kết hợp phản công trên hướng Bản Chắt (Đình Lập). Sau khi chiến dịch phản công được dừng lại, một bộ phận của Sư đoàn 304 đã kịp thời chuyển lên tham dự đánh địch ở Trà Lĩnh (Cao Bằng).
Khi chiến tranh bờ cõi bắt đầu, Bộ Quốc phòng cũng quyết định điều một phần lực lượng Sư đoàn không quân 372 (đoàn Hải Vân) ra Bắc làm bổn phận. Từ 18-2 đến 3-3-1979, những phi đội thuộc Trung đoàn không quân 917 (đoàn Đồng Tháp), 935 (đoàn Đồng Nai) và 937 (đoàn Hậu Giang) gồm 10 trực thăng UH-1, 3 máy bay thám thính U-17, 10 máy bay cường kích A-37, 10 máy bay tiêm kích bom F-5 lần lượt được triển khai thực hiện ở căn cứ Hòa Lạc, Kép, Bạch Mai và Nội Bài, song song với những phi đội tiêm kích MiG-17, MiG-21 của Sư đoàn không quân 371 (đoàn Thăng Long) đặt trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao độ.
Ở phía Nam, trực thăng và máy bay chuyên chở của Trung đoàn không quân 916 (đoàn Ba Vì), 918 và Đoàn bay 919 Tổng cục Hàng không dân dụng kết hợp với không quân Liên Xô khẩn trương tụ tập và chuyên chở Quân đoàn 2 ra Bắc.
Ngoài ra Đoàn bay 919 còn bằng máy bay chuyên chở IL-14 (có MiG-21 yểm hộ) bay những chuyến thả dù tiếp tế cho lực lượng vũ trang ta ở khu vực xã Canh Tân-Minh Khai, Thạch An (Cao Bằng).
Lạng Sơn được Quân khu 1 gia tăng Trung đoàn 197 Bắc Thái cho hướng thị xã và Trung đoàn 196 Hà Bắc cho hướng Đình Lập. sau đó Bộ Quốc phòng còn tiếp tục bổ sung thêm Trung đoàn pháo phản lực 204, Trung đoàn đặc công 198, Trung đoàn 98 Sư đoàn công binh 473, Lữ đoàn công binh 229 (đoàn Sông Đà), doanh nghiệp súng phun lửa của Trung đoàn phòng hóa 86…
Hướng Cao Bằng được gia tăng Trung đoàn 183 Hải Hưng, Tiểu đoàn đặc công 45, tiểu đoàn pháo tầm xa 122mm của Lữ đoàn pháo binh 675, tiểu đoàn tên lửa chống tăng B72, Trung đoàn 38 Sư đoàn công binh 473, Tiểu đoàn 126, 127 bộ đội địa phương Bắc Thái cùng một vài tiểu đoàn tự vệ của nhà máy đanh thép Thái Nguyên, doanh nghiệp xây lắp luyện kim... Ngoài giải ngũ khu 1 cho có mặt trên thị trường thêm Sư đoàn bộ binh 311 trên cơ sở Trung đoàn 38 Sư đoàn 473.
Hướng Hoàng Liên Sơn cũng được gia tăng một vài doanh nghiệp, trong đó có tiểu đoàn pháo tầm xa của Lữ đoàn pháo binh 368... Tính chung, tổng cộng 2 sư đoàn bộ binh, 2 tiểu đoàn đặc công, 2 tiểu đoàn pháo tầm xa và 25 tiểu đoàn dự nhiệm cùng những doanh nghiệp binh chủng và dân binh tự vệ những địa phương của Quân khu 1, 2, 3, 4 và Thủ đô hà nội đang được huy động lên bờ cõi tham dự chiến đấu hoặc sẵn sàng chiến đấu.
Liên Xô – quốc gia đồng minh lớn nhất khi đó của việt nam đã thực hiện những biện pháp phù trợ. bên cạnh việc cung cấp thông tin tình báo và thám thính kỹ thuật, Liên Xô lập ra một cầu hàng không lớn góp một phần cơ động những doanh nghiệp việt nam ở chiến trường Campuchia ra miền Bắc. Moscow còn chi viện khẩn cấp một khối lượng lớn khí giới và trang thiết bị bảo đảm qua đường hàng hải, trong đó có 400 xe tăng và thiết giáp, 500 khẩu pháo cối và cao xạ, 50 tổ hợp pháo phản lực BM-21, 400 tổ hợp tên lửa vác vai, 800 súng chống tăng và 20 máy bay chiến đấu.
Ngoài ra, những doanh nghiệp chính quy ở bờ cõi Xô-Trung được lệnh báo động và thực hiện tập trận tầm cỡ lớn để tạo áp lực, Hạm đội bình yên Dương cũng cho một biên đội tàu chiến đấu xuống tuần tiễu khu vực Biển Đông…
Xe tăng Trung Quốc bị tiệt trừ ở chiến trường Cao Bằng
Ngày 5-3, Chủ tịch Tôn Đức Thắng công bố Lệnh tổng khích lệ cả nước "để bảo vệ sơn hà xã hội chủ nghĩa việt nam, đánh thắng hoàn toàn cuộc chiến tranh chiếm đóng của bọn bành trướng và bá quyền Trung Quốc".
Cũng trong ngày hôm đó, nhà cầm quyền Bắc Kinh tuyên bố "hoàn thành mục tiêu" và rút quân, cơ mà trên thực tế quân Trung Quốc vẫn được chiếm đóng, đánh phá những khu vực khiến cho giao tranh còn trong vòng cho đến 18-3-1979 và tiếp tục diễn ra dai dẳng sau đó.
Theo công bố chính cống của việt nam, trong tuần đầu tiên của chiến tranh, lực lượng vũ trang 6 tỉnh bờ cõi đã loại khỏi vòng chiến 16.000 quân Trung Quốc, con số này tiếp tục gia tăng 27.000 vào ngày 28-2 và 45.000 vào ngày 5-3- ngày Bắc Kinh bắt đầu rút quân.
Tính đến ngày 18-3 khi chiến tranh lâm thời kết thúc, những doanh nghiệp bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, công an vũ trang, cảnh sát, dân binh tự vệ của việt nam đã tiệt trừ 62.500 tên địch (trong đó bắt sống 260 tù binh), đánh tai hại nặng 3 trung đoàn và 18 tiểu đoàn, bắn cháy 280 xe tăng, thiết giáp và 270 xe quân sự, phá hủy 115 khẩu pháo, cối và dàn hỏa tiễn.
Phía Trung Quốc chính cống thừa nhận có 20.000-30.000 quân bị thương vong trong cuộc chiến, 2/3 là của những doanh nghiệp trên hướng Quảng Châu, trong đó 4.000 thương vong diễn ra chỉ trong hai ngày đầu tiên. cơ mà, những nghiên cứu của phương tây nhận định con số tai hại thực của Trung Quốc cao hơn những, có thể lên đến 46.000-62.000 quân (với khoảng 13.000-26.000 người chết) và khoảng 400 xe tăng bị phá hủy. Họ cũng cho rằng thương vong của những lực lượng vũ trang việt nam thấp hơn với khoảng 8.000-10.000 người chết.
Mặc cơ mà, cuộc chiếm đóng của Bắc Kinh đã gây ra những tai hại cự kỳ nặng nề cho nước việt nam khi đó đã phải hứng chịu 35 năm chiến tranh liên tiếp.
Lính Trung Quốc đã gây ra những vụ cưỡng bức, thảm sát, bắn phá... bừa phứa làm trên 10.000 dân thường việt nam bị thương vong. trong khi đó quân Trung Quốc còn thực hiện cơ chế cướp bóc và phá hoại triệt để ở những khu vực chiếm đóng được: áng chừng 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, trạm xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ, 600.000 m2 nhà ở và 80.000 héc-ta hoa màu ở khu vực chiến sự bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp.
Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân ở bờ cõi bị mất nhà ở, của cải và công cụ an cư. những thị xã lớn Lạng Sơn, Cao Bằng và Cam Đường gần như bị hủy diệt hoàn toàn, bộ đội Trung Quốc sử dụng mìn đánh sập tất cả những công trình, nhà ở, cầu, đường bộ và đường sắt... ngay cả những di tích nguồn gốc hoàn toàn không có ý nghĩa gì về mặt quân sự như hang Pắc Bó (Cao Bằng) – từng là nơi ở và công tác của Chủ tịch Hồ Chí Minh, động Tam Thanh, Nhị Thanh (Lạng Sơn)… cũng bị phá hoại.
Thị xã Lạng Sơn bị quân Trung Quốc tàn phá
Chiến tranh bảo vệ bờ cõi phía Bắc lâm thời kết thúc sau 1 tháng, cơ mà nối tiếp ngay sau đó là một thời điểm dài Trung Quốc thực hiện một cuộc chiến tranh phá hoại những mặt chống lại việt nam.
Các hoạt động vũ trang như mai phục, đột kích, pháo kích, tiến công lấn chiếm… tiếp tục được Bắc Kinh duy trì với cường độ cao nhằm hình thành tình trạng áp lực, bất ổn ở khu vực bờ cõi Việt-Trung, gây ra những tổn thất cho lực lượng vũ trang và dân chúng việt nam.
Ở những nơi giao tranh diễn ra ác liệt, trong vòng như khu vực bình độ 400 ở Cao Lộc (Lạng Sơn) năm 1981 hay khu vực Thanh Thủy ở Vị Xuyên (Hà Tuyên) từ 1984-1989... Phải tới năm 1990, quan hệ hai nước mới được bình thường hóa, và đến đây hòa bình đích thật mới được lập lại trên bờ cõi việt nam.
0 Comment to "Chiến tranh bảo vệ bờ cõi phía Bắc 1979: khi đại quân chính quy xung trận"
Đăng nhận xét